Qua những tư liệu lịch sử, Tết của vua chúa xưa thường không nặng về hưởng thụ vật chất mà luôn hướng tới lễ nghi và truyền thống văn hóa của dân tộc.
Có lẽ, trong suy nghĩ của nhiều người, Tết của vua chúa ngày xưa chắc phải xa hoa lắm, tráng lệ lắm.
☀ Thời Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ
Các triều đại từ Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ đã có những quy định khá cụ thể về việc đón Tết, nhất là ở nơi cung điện triều đình. Đây là lễ tiết rất quan trọng trong năm theo quan niệm truyền thống.
Ngày lập xuân (khởi đầu của mùa xuân), vua mở đại yến trong Đại Nội (Hoàng Cung). Toàn bộ văn võ bá quan làm việc tại kinh đô đều mặc trang phục chỉnh tề, cài hoa lên đầu vào dự yến.
Ngày 28 tháng chạp, vua ngự xe, các quan mặc triều phục đi phò tá. Vua đến tế lễ ở đền Đế Thích ngoài thành Thăng Long.
Ngày 30 Tết, vua ngồi giữa cửa Đoan Củng, các quan đến hành lễ rồi xem hát múa trăm lối. Buổi tối, vua qua cung Động Nhân, bái yết tiên vương. Đêm ấy, thầy tu vào nội điện làm lễ “Khu Na” (đuổi tà ma).
Ngày mùng 1 Tết, vào khoảng canh năm (3h - 5h sáng), vua ngồi trên điện Vĩnh Thọ, tôn tử (con cháu nhà vua) cùng các quan cận thần làm lễ hạ trước, rồi vào cung Trường Xuân, vọng bái lăng tổ.
Buổi sáng sớm, vua ngồi trên điện Thiên An, phi tần sắp lớp ngồi bên dưới, các quan đứng trước điện, chơi những bài nhạc trước đại đình. Con cháu nhà vua và bề tôi xếp thành hàng bái hạ, ba lần rót rượu dâng lên. Xong xuôi, các tôn tử lên chầu và dự yến. Quan nội thần ngồi hai bên ăn tiệc, đến trưa thì lần lượt ra về.
Ngày mùng 2 Tết, các quan làm lễ riêng ở nhà.
Mùng 3 Tết, vua ngồi trên gác Đại Hưng, xem các tôn tử và quan nội cung đánh bóng cầu thêu, bắt được mà không rơi xuống đất là thắng.
Mùng 5 Tết tổ chức lễ khai hạ, ăn yến xong thì để quan và dân lễ các chùa miếu và du ngoạn vườn hoa.
Một nghi lễ cung đình thời xưa. Ảnh tư liệu.
☀ Dưới thời Lê - Trịnh
Đến thời Lê - Trịnh, người thực sự nắm mọi quyền hành trong nước không phải vua Lê, mà là chúa Trịnh và thế tử. Nhưng trong các ngày lễ Tết, vua Lê vẫn được coi là người chủ trì các nghi thức quan trọng trong triều.
Sáng mùng 1 Tết, theo lệnh chúa Trịnh, quan Tiết chế (Tiết chế phủ) hướng dẫn quan văn võ mặc phẩm phục vào chầu mừng nhà vua. Vua Lê ngự giữa điện Kính Thiên, Tiết chế phủ đứng ở phía đông sân rồng, quan văn võ đứng hai bên.
Các quan quỳ xuống nghe quan Đại trí từ đọc tờ biểu của Tiết chế phủ. Sau đó, Quan truyền chế tuyên đọc tờ chế của vua với nội dung ngắn gọn: “Hoàng thượng chế rằng: Phúc thịnh vượng hanh thông với các ngươi cùng hưởng”.
Sau nghi lễ chúc mừng năm mới tại cung điện vua Lê, Tiết chế phủ lại dẫn các quan đến phủ chúa để chúc mừng chúa Trịnh. Sáng mùng 1 Tết, chúa Trịnh đến hành lễ ở Thái miếu và Cung miếu rồi quay về phủ, ngồi trên sập rồng để bách quan lạy mừng.
Xong nghi thức, chúa ban tiền thưởng xuân cho các quan từ nhất phẩm triều đình trở xuống và cho mọi người được dự yến. Tiệc yến xong, các quan làm lễ tạ ơn, chúa lui vào cung, Tiết chế phủ về phủ chúc mừng thế tử. Nghi thức ngày mùng 1 kết thúc.
Ngày mồng 3 Tết, bách quan tề tựu tại cung điện để tháp tùng vua Lê và chúa Trịnh đi hành lễ ở một địa điểm ngoại thành. Vua ngồi trên ngai vàng do binh lính khiêng trên vai, còn chúa thì ngồi trên xe thếp vàng, theo sau là các tiến sĩ, cử nhân địa phương.
☀ Triều Nguyễn
Dưới triều Nguyễn, do việc ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, việc tổ chức đón Tết trong cung điện thiên về phần lễ hơn hội.
Vua Gia Long đã có lệ tặng quà cho các quan đại thần trong dịp Tết. Quà thường gồm quần áo hay vải vóc dệt ở Trung Quốc, dựng trong hộp màu vàng, được quân lính dùng lọng che và mang đến tận nhà người nhận.
Sáng mùng 1 Tết, bá quan mặc phẩm phục đại triều, tập hợp ở cung điện. Các quan quỳ xuống chúc tụng nhà vua muôn tuổi, rồi sau đó ai về nhà nấy.
Thời vua Minh Mạng, vào ngày đầu tiên của năm mới, nhà vua đội mũ chín rồng, mặc áo vàng, thắt đai ngọc, hành lễ tại nhà Thái miếu. Đàn Nam Giao được xây dựng năm 1806 để hợp tế trời đất, thờ trời.
Nguồn: https://goo.gl/Wg8Kja
Xem nhiều hơn tài liệu tại đây: https://goo.gl/bgu4qt